1-Sâu ăn lá Diaphania indica
Họ Ngài Sáng (Pyralidae); Bộ Cánh Vảy (Lepidoptera)
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Bướm có chiều dài thân từ 10 - 12 mm, sải cánh rộng từ 20 - 25 mm. Bướm có cánh trước màu trắng bạc với một đường viền màu nâu đậm dọc theo cạnh trước của cánh trước và cạnh ngoài của cánh trước và cánh sau. Thời gian sống của bướm từ 5 đến 7 ngày và một bướm cái đẻ từ 150 - 200 trứng.
Trứng màu trắng đục, trước khi nở chuyển thành màu trắng hơi ngả vàng, được đẻ riêng lẻ trên cả hai mặt lá, nhất là đọt và trái non. Thời gian ủ trứng từ 4 - 5 ngày.
Sâu màu xanh lá cây nhạt, có 2 sọc trắng chạy dọc cơ thể rất rõ. Đủ lớn ấu trùng dài từ 20 - 25 mm. Ấu trùng có 5 tuổi, phát triển từ 10 - 20 ngày.
Nhộng màu nâu nhạt khi mới hình thành, vài ngày sau chuyển thành màu nâu đen. Thời gian nhộng từ 6 - 7 ngày.
Ấu trùng (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT), thành trùng (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Sâu có tập quán là dùng tơ cuốn các đọt non lại và ở bên trong ăn phá. Khi sâu lớn có thể cắn trụi cả lá và chồi ngọn của đọt non. Sâu còn ăn trái non làm cho trái bị thối và rụng. Khi trái lớn sâu thường ẩn ở mặt dưới, nơi phần trái chạm mặt đất và cạp lớp da bên ngoài làm trái bị lép nơi đó và da trái bị loang lổ. Sâu làm nhộng trong các lá non cuốn lại.
Ấu trùng gây hại vỏ trái dưa hấu, đục trái khổ qua (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Có thể dùng tay bắt sâu khi mật số còn ít hoặc áp dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng trước khi sâu cuốn lá lại.
Phun các loại thuốc như ACE 5EC,CARMETHRIN 10&25EC, ANITOX 50 SC, CAZINON 50ND, SAUTIU 1,8 & 3,6EC, CAHERO 585EC, CATODAN 18SL&90,95WP , CAGENT 800WP
2-Bọ xít nâu Cyclopelta obscura
Họ Bọ Xít Năm Cạnh (Pentatomidae); Bộ Cánh Nửa Cứng (Hemiptera)
KÝ CHỦ
Loài này được tìm thấy trên hầu hết các loại đậu, bầu bí, dưa, mướp, cây ăn trái và một số loại cỏ.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Loài này được tìm thấy trên hầu hết các loại đậu, bầu bí, dưa, mướp, cây ăn trái và một số loại cỏ.
Thành trùng màu nâu đậm, giữa ngực trước có một điểm vàng nhỏ. Bụng có chiều ngang rộng hơn 2 cánh xếp lại, phần dư ra của bụng có những đốm nhỏ màu vàng cam. Cánh sau là cánh màng mỏng màu nâu. Râu đầu 5 đốt, luôn hướng về phía trước. Thời gian sống của thành trùng từ 2 - 4 tháng. Thành trùng đực và cái được phân biệt như sau:
Thành trùng đực có chiều dài cơ thể từ 13 - 14 mm, cuối bụng hơi nhọn, mặt dưới của bụng không có những đường gạch ngang rõ rệt; phần bụng đưa ra khỏi cánh màu vàng cam không nổi rõ.
Thành trùng cái cơ thể to hơn, dài từ 14 - 18 mm, cuối bụng tròn, màu sắc mặt dưới bụng và phần nhô ra khỏi cánh có màu sắc rõ ràng. Một thành trùng cái đẻ từ 100 - 200 trứng.
Trứng màu nâu, dài từ 35 - 40 mm. Trứng được đẻ thành hàng một trên thân, đôi khi cả trên lá và trái. Số trứng trên mỗi ổ rất thay đổi, từ 7 - 100 cái. Đôi khi trứng được đẻ rải rác từ 3 - 5 cái. Thời gian ủ trứng từ 12 - 15 ngày. Trứng bọ xít nở rất đồng loạt, từ 1 - 2 ngày, với tỷ lệ khoảng 80-100%; khi sắp nở trứng chuyển sang màu nâu đậm.
Lúc nở ấu trùng đội nấp vỏ trứng và dùng cử động của thân mình trồi ra ngoài, khoảng 40 phút sau ấu trùng khô lại và cử động bình thường. Sau khi nở ấu trùng tập trung quanh ổ trứng 3 - 4 ngày sau mới phân tán đi nơi khác.
Ấu trùng có 5 tuổi, phát triển từ 60 - 80 ngày. Chi tiết trong từng tuổi của ấu trùng như sau:
- Tuổi 1: khi mới nở dài khoảng 1,2 mm, màu đen, mình tròn, trên mình có những vân màu vàng nhạt nổi lên, râu đầu 4 đốt. Mắt kép màu đỏ. Khoảng ngày thứ hai sau khi nở ấu trùng bắt đầu hoạt động rất nhanh nhẹn và 3 ngày sau phần bụng của ấu trùng tròn lên và có màu đỏ tươi, từ 1 - 2 ngày sau thì thay da, ấu trùng tuổi này thay da rất đồng loạt.
- Tuổi 2: kích thước cơ thể dài từ 2 - 3 mm, chung quanh bụng có rìa vàng. Ở tuổi này bọ xít bắt đầu chích hút lá cây. Ở ngoài đồng, ban ngày bọ xít thường trốn dưới nách lá hoặc những kẻ hở của cành và thân chính của cây. Tuổi 2 phát triển từ 5 đến 7 ngày, trung bình 6 ngày.
- Tuổi 3: cơ thể dài từ 3 - 5 mm. Những đường vân trên bụng đã nổi rõ. Bọ xít bắt đầu tấn công được trái. Giai đoạn này kéo dài từ 8 - 10 ngày, trung bình 7,5 ngày.
- Tuổi 4: cơ thể dài từ 5 - 7 mm, phát triển từ 9 - 23 ngày, trung bình 21,8 ngày.
Mầm cánh đã bắt đầu xuất hiện.
- Tuổi 5: cơ thể dài từ 7 - 9 mm, những đường vân trên bụng rất rõ và phát triển từ 27 - 31 ngày, trung bình 29 ngày.
Thành trùng và ấu trùng (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng sau khi bắt cặp từ 1 - 3 ngày thì bắt đầu đẻ trứng. Số lượng trứng đẻ cao nhất ở ngày đầu và giảm khá nhiều ở ngày thứ ba.
Sau khi nở ấu trùng không ăn mà chỉ cần đủ ẩm độ để sống. Từ tuổi 2 trở đi, ấu trùng bắt đầu phân tán đi chích hút các bộ phận của cây. Phần thịt chung quanh vết chích bị sượng và cứng. Đối với cây đậu nành, bọ xít chích hút làm cho cây đậu bị khô khi cây chưa tới giai đoạn chín hẳn; trái bị chích có quầng đen ngoài vỏ, nếu trái còn non thì hạt bị lép hoặc nếu phát triển được thì trái rất nhỏ, trái vẫn tươi xanh mà không vàng khô như bình thường, lông tơ trên vỏ trái bị khô.
Loài này có tập quán sống tập trung, ở 1 cây sẽ thấy cả ấu trùng và thành trùng cùng tập trung dọc theo thân và trên những trái có lá đậu che mát. Lúc trời nắng gắt bọ xít thường ẩn dưới lá hoặc dọc thân cây, phần có lá che mát.
Phun các loại thuốc :CARMETHRIN 10 &25EC,ACE 5EC,ANITOX 50SC,CATODAN 18SL&90,95WP,CAREMAN 40EC,FENTOX 25EC
3-Bọ dưa Aulacophora similis
Họ Ánh Kim (Chrysomelidae); Bộ Cánh Cứng (Coleoptera)
KÝ CHỦ
Đây là loài côn trùng đa ký chủ, gây hại rất nhiều loại cây trồng nhưng chủ yếu trên các cây thuộc họ Cucurbitacea, như dưa hấu, dưa leo, bầu, bí đao, bí đỏ. Đôi khi Bọ Dưa cũng ăn trên bắp, lúa miến và cả bông phấn lúa.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có chiều dài thân từ 6 - 8 mm, cánh màu vàng nâu, mắt đen, râu dài rất linh động. Đời sống của thành trùng rất dài, khoảng 100 - 200 ngày. Một thành trùng cái đẻ khoảng 200 trứng.
Thành trùng (Nguồn: AVRDC), triệu chứng (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Trứng rất nhỏ, dài khoảng 0,8 mm và rộng 0,3 mm, màu vàng xanh khi mới đẻ và màu vàng nâu khi sắp nở. Thời gian ủ trứng từ 8 - 15 ngày.
Ấu trùng mới nở màu trắng sữa, sau thành màu vàng nâu, đầu màu nâu, điểm đặc biệt là có 1 đôi chân giả. Ấu trùng có 3 tuổi với thời gian phát triển từ 18 đến 35 ngày.
Nhộng màu nâu nhạt, thời gian nhộng từ 5 - 14 ngày. Nhộng được hình thành trong đất, bên ngoài bao phủ bằng một kén tơ rất dày. Nhộng phát triển trong thời gian từ 4 - 14 ngày.
Vòng đời bọ dưa từ 80 - 130 ngày.
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng hoạt động mạnh vào ban ngày, nhất là khi có nắng lên. Thành trùng cái đẻ trứng thành từng nhóm từ 2 - 5 cái lúc sáng sớm hay chiều tối và đẻ trong đất, gần gốc cây hay trong rơm rạ.
Thành trùng cạp lớp biểu bì và phần mô diệp lục mặt trên lá thành một đường vòng, sau đó, phần bị cạp ăn sẽ đứt lìa khỏi lá. Thành trùng thường tấn công cây con khi có hai lá đơn dầu tiên, nếu mật số cao có thể ăn rụi hết lá lẫn đọt non. Cây trồng trong mùa nắng bị thiệt hại nhiều hơn trong mùa mưa.
Ấu trùng sau khi nở ăn rễ cây và đục vào gốc làm cây bị vàng héo, chậm phát triển hoặc chết đột ngột. Các vết ăn phá của ấu trùng trên rễ, gốc cây còn là nơi xâm nhập của vi khuẩn hay nấm làm dây dưa bị chết.
Có thể phun CARMETHRIN 10 &25EC,ACE 5EC,ANITOX 50SC,CATODAN 18SL&90,95WP, CAREMAN 40EC,FENTOX 25EC,
4-Bọ rùa Epilachna vigintioctopunctata
Họ Bọ Rùa (Coccinellidae); Bộ Cánh Cứng (Coleoptera)
KÝ CHỦ
Ngoài bầu, bí, dưa, loài bọ rùa này còn tấn công cả cà chua, đậu bắp, ớt, các loại đậu.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có cánh màu đỏ cam, có 28 chấm đen trên cánh. Cơ thể có chiều dài từ 5 - 7 mm và rộng từ 4 - 6 mm. Thành trùng cái sống khoảng 51 ngày và thành trùng đực sống từ 40 - 45 ngày.
Trứng hình thoi, màu vàng, thường được đẻ thành từng khóm từ 9 - 55 cái ở mặt dưới lá và được xếp thẳng đứng với mặt lá. Trứng dài từ 1,2 - 1,5 mm. Một thành trùng cái có thể đẻ từ 250 - 1000 trứng trong thời gian từ 3 - 5 ngày. Thời gian một thành trùng cái đẻ 1 ổ trứng kéo dài 20 - 30 phút. Khi sắp nở trứng có màu vàng sậm. Trứng của loài này nở rất đồng loạt và có tỉ lệ nở từ 95 - 100%.
Ấu trùng có 4 tuổi, phát triển trong thời gian từ 16 - 23 ngày. Khi sắp nở, ấu trùng cắn đỉnh vỏ trứng rồi dùng cử động của chân để chui ra ngoài. Thời gian chui ra của một ấu trùng mất trung bình 30 phút. Sau khi nở, ấu trùng tập trung tại vỏ trứng từ 12 - 15 giờ và ăn hết vỏ trứng hay ăn các trứng chưa nở kịp hoặc không nở đến khi không còn trứng nào chúng mới phân tán tìm thức ăn. Ấu trùng màu vàng khi mới nở, lớn đủ sức màu đậm. Trên khắp mình có gai nhỏ màu nâu đậm mọc thẳng góc với da. Chi tiết trong từng tuổi của ấu trùng như sau:
Tuổi 1: cơ thể có chiều dài từ 1 - 1,2 mm và chiều rộng từ 0,5 - 0,6 mm; toàn thân màu vàng, trên thân có 6 hàng gai, phát triển từ 2 - 3 ngày, trung bình 2,9 ngày.
Tuổi 2: cơ thể có kích thước 2,1 x 0,9 mm; màu vàng, 6 hàng gai trên thân đã hiện rõ, phát triển từ 2 - 4 ngày, trung bình 2,3 ngày.
Tuổi 3: cơ thể có kích thước 3,5 x 1,2 mm; màu vàng, các chi tiết khác giống như tuổi 2 và phát triển từ 2 - 4 ngày, trung bình 2,7 ngày.
Tuổi 4 kéo dài từ 4 - 5 ngày, trung bình 4,6 ngày. Cơ thể có kích thước khoảng 5 x 2 mm.
Nhộng màu vàng nhạt gần như trắng với nhiều đốm màu nâu đậm trên thân và chuyển sang vàng khi sắp vũ hóa. Nhộng có chiều dài từ 5 - 6 mm, rộng từ 3 đến 4 mm. Nhộng phát triển trong thời gian từ 2 - 7 ngày và thường được hình thành ở mặt dưới lá. Trước khi làm nhộng 1 ngày, ấu trùng nằm bất động, không ăn phá và màu sắc có thay đổi chút ít, từ vàng chuyển sang vàng nhạt. Ấu trùng gắn phần cuối bụng vào lá cây xong lột xác lần cuối để thành nhộng. Trên mình nhộng có vài điểm đen, trong đó hai đốm đen ở đầu nhộng rất rõ, phần cuối nhộng có phủ một lớp gai.
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Triệu chứng và thành trùng bọ rùa (Nguồn: NSW Agriculture)
Cả ấu trùng và thành trùng đều sống ở mặt dưới lá, cạp biểu bì và nhu mô diệp lục của lá, chỉ còn lại biểu bì trên và gân. Mật số cao bọ rùa có thể cạp ăn trụi lá trên cây và sau đó có thể tấn công tiếp phần ngọn, trái non và cuống trái. Ấu trùng có khả năng ăn mạnh hơn thành trùng, nhất là ấu trùng tuổi 4, ăn mạnh gấp 2 - 3 lần thành trùng.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thăm ruộng thường xuyên và có thể bắt ấu trùng, thành trùng và ổ trứng bằng tay hoặc phun các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị.
Có thể phun CARMETHRIN 10 &25EC,ACE 5EC,ANITOX 50SC,CATODAN 18SL&90,95WP,CAREMAN 40EC,FENTOX 25EC,
5-Bù lạch Thrips palmi
Họ: Thripidae; Bộ: Thysanoptera
PHÂN BỐ KÝ CHỦ
Loài bù lạch này có diện phân bố rất rộng và có thể tấn công trên nhiều loại cây trồng.
ÐẶC ÐIỂM HÌNH THÁI VÀ SINH HỌC
Bù lạch có cơ thể rất nhỏ, khoảng 1 mm, màu nâu nhạt. Miệng phát triển cho việc chích hút. Chân của bù lạch rất đặc biệt là đốt bàn không có móng mà tận cùng bằng một mảnh nhỏ.
Trứng bù lạch hình trái thận, nở trong thời gian từ 3 - 10 ngày.
Ấu trùng rất giống thành trùng nhưng màu nhạt hơn, phát triển trong từ 4 - 7 ngày.
Thành trùng từ 8 - 18 ngày, vòng đời khoảng 25 ngày.
TẬP QUÁN SINH SỐNG VÀ GÂY HẠI
Triệu chứng chùn đọt trên dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Thành trùng và vòng đời bù lạch (Nguồn: NSW Agriculture)
Bù lạch thường đẻ trứng trong mô lá. Cả ấu trùng và thành trùng bù lạch thường sống ở mặt dưới lá và hay chui vào gần gân để trốn, do đó rất khó nhìn thấy, và thuốc trừ sâu cũng rất khó tiếp xúc được với chúng. Bù lạch thường chích cho nhựa cây chảy ra để hút ăn, đôi khi còn cạp cả mô lá hoặc cây. Lá cây bị bù lạch gây hại sẽ có dạng quăn queo, lá non biến dạng và bị cong xuống phía dưới.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
- Đốt các tàn dư thực vật.
- Áp dụng màn phủ nông nghiệp.
- Dùng bẩy màu vàng đặt vào rẫy từ khi cây con đến lúc trổ hoa để xác định mật số và quyết định khi nào áp dụng thuốc.
- Bù lạch rất khó trị vì nơi ẩn náu cũng như khả năng quen thuốc rất nhanh. Có thể lợi dụng thiên địch để khống chế mật số bù lạch. Nếu sử dụng thuốc hoá học để trị và nên thay đổi thuốc thường xuyên để tránh bù lạch quen thuốc. Dùng thuốc Actara hoặc Vertimec kết hợp với dầu khoáng.
Thuốc hữu hiệu là CANON 100SL,CAGENT 800WP
6-Rầy mềm Aphis gossypii
Họ: Aphididae; Bộ Homoptera
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có hai dạng:
Dạng không cánh: cơ thể dài từ 1,5 - 1,9 mm và rộng từ 0,6 - 0,8 mm. Toàn thân màu xanh đen, xanh thẩm và có phủ sáp; một ít cá thể có dạng màu vàng xanh.
Dạng có cánh: cơ thể dài từ 1,2 - 1,8 mm, rộng từ 0,4 - 0,7 mm. Đầu và ngực màu nâu đen, bụng màu vàng nhạt, xanh nhạt, có khi xanh đậm, phiến lưng ngực trước màu đen. Mắt kép to. Ống bụng đen.
Ấu trùng, thành trùng không cánh và có cánh (Nguồn: NSW Agriculture)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Ấu trùng và thành trùng tập trung mặt dưới lá, nhất là đọt non, bông, chồi hút nhựa làm cho các phần ấy bị khô héo hoặc để lại những vết thâm đen trên lá.
Trên cây dưa , rầy gây hại trầm trọng nếu tấn công các dây chèo hay đỉnh sinh trưởng. Rầy mềm thường tập trung với số lượng lớn ở đọt non làm lá bị quăn queo và phân tiết ra thu hút nhiều nấm đen bao quanh làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trái.
Đối với bầu bí trong giai đoạn có hoa nếu bị loài này tấn công với mật số cao thì hoa dễ bị rụng, nhất là vào thời kỳ cho trái non, gây hiện tượng rụng trái hay trái bị méo mó.
Trên cây bông vải, những dịch mật do rầy tiết ra rơi vào quả nang và lá đang mở ra sẽ là môi trường cho nấm mốc phát triển và gây khó khăn cho việc thu hoạch bông vải.
Ngoài ra, rầy còn là tác nhân truyền bệnh virus cho cây. Sau cùng làm cây bị mất sức, lùn và chết.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Nhặt và chôn vùi các phần có rầy gây hại.
Không nên bón nhiều phân đạm.
Rầy mềm nhân mật số rất nhanh nên thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện kịp thời và phòng trị đúng lúc thì cũng tương đối dễ diệt. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị.
Vì rầy mềm truyền bệnh virus nên thuốc trừ sâu chỉ có thể diệt được rầy mà không hạn chế được bệnh, nhưng nếu áp dụng thuốc sớm, diệt được số lớn rầy ở giai đoạn đầu thì khả năng truyền virus của rầy không nhiều.
Sử dụng thuốc trừ sâu nên để ý đến quần thể thiên địch của rầy mềm.
Có thể phun CARMETHRIN 10 &25EC,ACE 5EC,ANITOX 50SC,CATODAN 18SL&90,95WP,FENTOX 25EC,
7-Ruồi đục trái Dacus cucurbitae
(Bactrocera cucurbitae)
Họ: Trypetidae; Bộ Diptera
KÝ CHỦ
Ruồi gây hại trên các loại cây như dưa, bầu bí, mướp, ớt...
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Ruồi có hình dáng tương tự ruồi đục trái cây nhưng khác nhau là ở phần ngực có một vạch màu vàng ngay giữa ngực và cánh có màu đục hơn và cánh trước có một vệt màu đậm nằm ngang đầu cánh.
Trứng hình bầu dục màu trắng bóng. Thời gian ủ trứng từ 2 - 4 ngày
Dòi màu trắng ngà, đầu nhọn. Thời gian phát triển của dòi từ 7 - 11 ngày.
Nhộng hình trụ, màu vàng khi mới hình thành, nhưng khi sắp vũ hoá có màu nâu, nằm trong đất. Thời gian nhộng từ 8 - 10 ngày.
Chu kỳ sinh trưởng của ruồi từ 16 - 23 ngày.
Thành trùng ruồi đục trái (Nguồn: Hiroyuki Kuba & Masaaki Yamagishi)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thiệt hại trên trái khổ qua và ớt (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Ruồi cái đẻ trứng vào bên trong trái thành từng chùm. Dòi nở ra đục lòn thành đường hầm bên trong trái làm cho trái bị hư thối. Khi sắp làm nhộng dòi buông mình xuống đất làm nhộng dưới mặt đất một lớp không sâu lắm, nhưng trong mùa mưa dòi làm nhộng ngay bên trong trái.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Luân canh các loại cây trồng không phải là ký chủ của ruồi như lúa, nhất là việc cho ruộng ngập nước sẽ làm chết nhộng rất nhiều
Bao trái lại để tránh ruồi đẻ trứng vào.
Thu gom các trái hư để thu hút thành trùng tới xong diệt bằng thuốc trừ sâu hay đốt.
Thuốc đặc trị là SOFRI PROTEIN 10DD ,sản phẫm được Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn công nhận là một tiến bộ của kỷ thuật nông nghiệp,phù hợp với các chương trình rau sạch
8-Ruồi đục lá Liriomyza trifolii
Họ: Agromyzyiidae; Bộ Hai Cánh (Diptera)
KÝ CHỦ
Đây là loài côn trùng phá hại trên nhiều loại cây như bầu bí dưa leo dưa gan, cà chua, ớt, đậu nành, đậu trắng…
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng rất nhỏ, dài từ từ 1,3 - 1,5 mm, màu đen bóng, nhưng một phần cơ thể, gồm cả phiến mai trên ngực có màu vàng. Mắt kép màu đen bóng. Cánh trước có chiều dài khoảng 1,4 mm, rộng 0,60 mm. Cánh sau thoái hóa còn rất nhỏ, màu vàng nhạt. Bụng và chân có nhiều lông, chân màu vàng, đốt chày và đốt bàn màu đen, bàn chân 5 đốt, đốt cuối có 2 móng cong màu đen.
Trứng rất nhỏ, màu trắng hồng, tròn, đường kính khoảng 0,2 mm.
Ấu trùng có chiều dài khoảng 2 mm, màu vàng nhạt khi mới nở, sau chuyển thành màu vàng đậm. Cơ thể có 10 đốt, miệng dạng móc câu màu đen. Thời gian phát triển của ấu trùng từ 3 - 4 ngày.
Nhộng có chiều dài khoảng 1,5 mm, rộng 0,7 mm. Thời gian phát triển của nhộng từ 6 - 8 ngày.
Thành trùng ruồi đục lá (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng hoạt động mạnh từ 7 - 9 giờ sáng và từ 4 - 5 giờ chiều. Thành trùng cái dùng bộ phận đẻ trứng rạch mặt lá tạo nhiều lỗ. Trong số đó có một số lổ chứa trứng, chỉ khoảng 1%, phần lớn các lỗ còn lại dùng làm thức ăn cho thành trùng cái và đực do chất lỏng tiết ra từ vết chích. Các lỗ đục thường xuất hiện ở chóp lá hay dọc theo 2 bìa lá.
Triệu chứng ruồi đục lá trên lá cải bẹ xanh và dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Ruồi gây hại cho cây bằng cách đục thành những đường ngoằn ngoèo ở mặt trên lá, lúc đầu đường đục nhỏ, càng lúc càng to dần cùng với sự phát triển của cơ thể ấu trùng. Đường đục xuất hiện ở cả hai mặt lá nhưng thấy rõ nhất là ở mặt trên lá. Khi trưởng thành, dòi đục thủng biểu bì chui ra ngoài và làm nhộng trên mặt lá hay trên các bộ phận khác của cây hoặc buông mình xuống đất làm nhộng.
Các vết đục khắp mặt lá làm cho lá bị khô, trái nhỏ, giảm phẩm chất của trái, nếu trầm trọng làm năng suất giảm.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
* Biện pháp canh tác:
+ Làm sạch cỏ chung quanh ruộng dưa trước khi xuống giống.
+ Cày sâu sau khi thu hoạch.
+ Áp dụng màn phủ nông nghiệp.
+ Xuống giống đồng loạt.
* Biện pháp sinh học:
Ngoài thiên nhiên ruồi có rất nhiều thiên địch. Nếu áp dụng thuốc trừ sâu nhiều sẽ làm cho mật số ruồi tăng cao và tạo thành dịch dễ dàng.
* Biện pháp hóa học:
Nếu mật số thiên địch trên 50% không cần áp dụng thuốc để trừ ruồi, nhưng nếu mật số thiên địch thấp, không thể khống chế mật số ruồi thì nên áp dụng thuốc khi cây con bắt đầu có lá mầm và lá thật đầu tiên. Ở những vùng ruồi có điều kiện nhân mật số nhanh thì cần áp dụng thuốc lại khi cần. Áp dụng thuốc nhóm gốc lân hoặc gốc cúc, kết hợp với sử dụng dầu khoáng.
Có thể dùng CAZINON 50ND, ANITOX 50SC, CATODAN 18SL &90,95WP, CANON 100SL, CARMETHRIN 10&25EC, ACE5EC
9-Nhện đỏ Tetranychus sp.
Họ: Tetranychidae; Bộ Acarina.
KÝ CHỦ
Nhện đỏ có diện phân bố rất rộng và gây hại trên nhiều loại cây khác nhau như bầu bí dưa, chủ yếu là dưa hấu, cà chua, cà tím, các loại đậu, đu đủ...
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng hình bầu dục, thân rất nhỏ khoảng 0,4 mm, thành trùng đực có kích thước nhỏ, khoảng 0,3 mm. Toàn thân phủ lông lưa thưa và thường có màu xanh, trắng hay đỏ với đốm đen ở 2 bên thân mình. Nhện có 8 chân, thành trùng cái màu vàng nhạt hay hơi ngả sang màu xanh lá cây. Nhìn xuyên qua cơ thể có thể thấy được hai đốm màu đậm bên trong, đó là nơi chứa thức ăn. Sau khi bắt cặp, thành trùng cái bắt đầu đẻ trứng từ 2 - 6 ngày, mỗi nhện cái đẻ khoảng 70 trứng.
Nhện đỏ đang đẻ trứng
Trứng rất nhỏ, hình cầu, bóng láng và được gắn chặt vào mặt dưới của lá, thường là ở những nơi có tơ do nhện tạo ra trong khi di chuyển. Khoảng 4 - 5 ngày sau trứng nở.
Ấu trùng nhện đỏ rất giống thành trùng nhưng chỉ có 3 đôi chân. Những ấu trùng sẽ nở ra thành trùng cái thay da 3 lần trong khi những ấu trùng sẽ nở ra thành trùng đực thay da chỉ có 2 lần. Giai đoạn ấu trùng phát triển từ 5 - 10 ngày.
Nhện đỏ hoàn tất một thế hệ từ 20 - 40 ngày.
Thiệt hại do nhện đỏ ở mặt dưới lá dưa hấu (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Nhện di chuyển rất nhanh và nhả tơ mỏng bao thành một lớp ở mặt dưới lá nên trông lá có màu trắng dơ do lớp da để lại sau khi lột cùng với bụi và những tạp chất khác. Cả ấu trùng và thành trùng nhện đỏ đều chích hút mô của lá cây làm cây bị mất màu xanh và có màu vàng và sau cùng lá sẽ bị khô đi. Màu vàng của lá dễ nhìn thấy nhất là ở mặt dưới lá, làm giảm phẩm chất và năng suất trái.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thiên địch có vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế mật số nhện đỏ như:
- Nhện đỏ Galandromus (Metaseiulus) occidentalis, loài này có cùng kích thước với nhện gây hại nhưng thiếu các chấm và có màu vàng nhạt đến màu đỏ nâu, khả năng diệt nhện của loài này không cao lắm.
- Bù lạch 6 chấm Scolothrips sexmaculatus có 3 chấm màu sậm trên mỗi cánh trước, bù lạch bông Frankliniella occidentalis có màu từ vàng chanh sáng đến nâu sậm.
- Bọ rùa Stethorus sp.
- Bọ xít nhỏ Orius tristicolor và Chysoperla carnea cũng là thiên địch của nhện đỏ.
Nhện đỏ rất khó trị vì rất nhỏ và thường sống ở gần gân lá, nơi thuốc trừ sâu rất khó tiếp xúc, hơn nữa, nhện tạo lập quần thể rất nhanh nên mật số tăng nhanh và nhiều. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ nhện nhưng phải để ý đến quần thể thiên địch.
Có thể dùng ANITOX 50SC,FENTOX 25EC,SAUTIU 1,8&3,6EC hoặc các thuốc đặc trị Nhện hiện có trên thị trường
|